Chuyên gia Ngân hàng Thế giới: Giảm thuế VAT sẽ chỉ có lợi cho người giàu

Ông Sebastian Eckhardt, chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới Việt Nam (WB), bày tỏ quan điểm về đề xuất sửa đổi hàng loạt sắc thuế của Bộ Tài chính.

– Bộ Tài chính đang sửa đổi, bổ sung dự luật thuế đối với 5 loại thuế. Bạn đánh giá như thế nào về đề xuất điều chỉnh thuế này?

– Chúng tôi cho rằng các đề xuất cải cách chính sách tài khóa của Bộ Tài chính là rất quan trọng và kịp thời để đảm bảo tăng trưởng bền vững và ổn định. Điều tiết kinh tế vĩ mô. Phần thu thuế của Việt Nam trong GDP đã giảm trong những năm gần đây, từ 23,5% GDP năm 2010 xuống còn 18,3% GDP năm 2016.

Tỷ lệ huy động vốn / GDP giảm chủ yếu do 3 yếu tố. Thứ nhất, doanh thu từ dầu thô đã giảm. Thứ hai, do Việt Nam đã ký hiệp định thương mại và giảm thuế quan nên nguồn thu từ thương mại giảm. Cuối cùng là do thuế suất thuế doanh nghiệp giảm từ 32% xuống 20%.

Những thay đổi trên đã tạo ra những hiệu ứng tốt cho toàn bộ nền kinh tế bằng cách kích thích đầu tư, tăng trưởng và sáng tạo. Việc làm, mà còn bằng cách tăng thâm hụt ngân sách, dẫn đến gia tăng nợ công. Hiện tại, tỷ lệ huy động trên GDP của Việt Nam đã giảm 5,2% so với năm 2010, và những khoản sụt giảm doanh thu này được bù đắp bởi nợ công.

Để đảm bảo nợ công bền vững, cần giảm chênh lệch ngân sách nêu trên. Điều này đòi hỏi một chính sách tổng thể và cân đối để huy động đầy đủ các nguồn lực và nâng cao hiệu quả chi tiêu.

Ngân hàng Thế giới (WB) Kinh tế trưởng Việt Nam Sebastian Eckhardt (Sebastian Eckhardt)

– Nhưng thuế tăng, nhất là thuế giá trị gia tăng sẽ khiến giá hàng hóa và dịch vụ tăng. Và có ảnh hưởng trực tiếp đến người nghèo. Bạn có ý kiến ​​gì không?

– Hiện tại, có mối quan tâm hợp lý về tác động của thuế giá trị gia tăng đối với phân phối thu nhập, đặc biệt là đối với người nghèo. Những lo ngại này hoàn toàn có cơ sở, nhưng kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc duy trì mức thuế giá trị gia tăng thấp không phải là cách tốt nhất để giải quyết cân đối ngân sách và đảm bảo công bằng.

Không, nó giống như thuế thu nhập lũy tiến, bất kể thu nhập của người nộp thuế là bao nhiêu, tất cả các hộ gia đình đều phải trả cùng một mức thuế ở mức thuế giá trị gia tăng. Do đó, thuế có tính chất lũy thoái.

Nói chung, các gia đình giàu có có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn và sử dụng các sản phẩm đắt tiền hơn, vì vậy họ phải trả phần lớn thuế giá trị gia tăng. Theo tính toán của chúng tôi, ở Việt Nam, 20% người nghèo nhất chỉ phải nộp thuế giá trị gia tăng 9% tổng thu nhập, trong khi con số này ở người giàu là gần 40%. Điều này có nghĩa là nếu các gia đình nghèo tiết kiệm được trung bình 10.000 đồng do thuế suất thuế giá trị gia tăng thấp thì các gia đình giàu có thể tiết kiệm được 40.000 đồng. Mức thuế giá trị gia tăng thấp như vậy thực sự có lợi cho người giàu nhiều hơn người nghèo.

Thứ hai, một phần lớn thu nhập của các gia đình nghèo được dùng để tiêu dùng, đặc biệt là các mặt hàng cơ bản như thực phẩm. Một cách để giảm tác động tiêu cực của việc tăng thuế đối với người nghèo là duy trì thuế suất VAT ưu đãi đối với hàng hóa cơ bản. Điều này sẽ làm giảm tác động tiêu cực của việc tăng thuế đối với người nghèo và phù hợp với xu hướng cải cách thuế mà Bộ Tài chính đã đề xuất. Chúng tôi đang làm việc với Bộ Tài chính để xem xét, đánh giá tác động của đề xuất tăng thuế này đối với phân phối thu nhập để có những điều chỉnh tiếp theo.

Tôi nhận thấy rằng bất kỳ cuộc tranh luận nào về tác động phân phối thu nhập của việc tăng thuế giá trị gia tăng cũng nên kết thúc — Cuối cùng, chúng tôi cũng đề nghị Việt Nam nên đóng “lỗ hổng thuế” và ưu đãi các biện pháp miễn thuế doanh nghiệp để đảm bảo rằng khu vực doanh nghiệp Ngân sách đã đóng góp, đặc biệt là do thuế suất hiện hành của Việt Nam đã cao. cuộc thi. Về chi ngân sách, có nhiều cách tốt hơn để phân bổ lại các hộ nghèo, bao gồm chi cho y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng có lợi cho người nghèo. Do đó, nếu chúng ta xem xét đề xuất tăng thuế giá trị gia tăng trên quy mô lớn hơn, chúng ta có thể giải quyết những lo ngại về tác động của việc tăng thuế giá trị gia tăng đối với phân phối thu nhập. ảnh hưởng? Thưa ông, việc tăng thuế giá trị gia tăng tác động như thế nào đến lạm phát?

– Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng ít ảnh hưởng đến lạm phát. Theo phân tích sơ bộ của chúng tôi, đề xuất tăng thuế giá trị gia tăng hiện nay sẽ khiến chỉ số giá tiêu dùng “một lần” tăng từ 0,06% đến 0,39%. Vì vậy, trừ khi chính phủ hỗ trợChính sách tiền tệ nới lỏng hay việc tăng lương bất thường trùng với thời kỳ tăng thuế giá trị gia tăng, lạm phát không phải là vấn đề. Cần lưu ý rằng tỷ lệ lạm phát hiện nay vẫn còn rất thấp, do đó, đây là thời điểm thích hợp để thực hiện cải cách thuế mà Bộ Tài chính đề xuất. Việc tăng thuế giá trị gia tăng đã thực sự thúc đẩy giá hàng hóa và dịch vụ tăng tương ứng. Ảnh: Zuma

– Theo ông, đề xuất tăng thuế giá trị gia tăng để chấn chỉnh nguồn thu có phù hợp trong bối cảnh hiện nay và xu thế cải cách thuế toàn cầu?

– Rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong điều kiện phát triển kinh tế, thuế giá trị gia tăng có hiệu quả hơn đánh thuế vào lao động và thu nhập từ vốn. Thuế ít có tác động làm sai lệch việc ra quyết định kinh tế của các hộ gia đình và doanh nghiệp, và ít ảnh hưởng hơn đến lao động và vốn. Không có gì ngạc nhiên khi nhiều quốc gia đang thay đổi cơ cấu thuế của họ. Phụ thuộc nhiều hơn vào thuế giá trị gia tăng. Ngoại trừ Hoa Kỳ, tất cả các nước OECD hiện đều áp dụng thuế tiêu thụ. Đây cũng là mức thuế tiêu dùng được đánh bởi tất cả các nước lớn ngoài OECD, bao gồm cả Ấn Độ (từ ngày 1/7/2017).

Việt Nam vẫn có thể mở rộng phạm vi áp dụng thuế GTGT. Nếu xét về thuế suất ưu đãi của thuế tiêu dùng, bao gồm cả thuế giá trị gia tăng thì trong tổng thu ngân sách quốc gia, tỷ trọng thuế hàng hóa dịch vụ hiện hành của Việt Nam năm 2016 là khoảng 48,5%. Trong khu vực ASEAN, tỷ trọng này của Việt Nam thấp hơn Thái Lan (53,9%), Lào (55,9%), Campuchia (55,5%), và nhỉnh hơn một chút so với Philippines (45%, 6%). — Chưa kể thuế suất thuế giá trị gia tăng hiện nay của Việt Nam đang ở ngưỡng thấp hơn thế giới, bình quân 16%. Ví dụ, giữa các quốc gia châu Á, mức thuế áp dụng là 10% ở Indonesia và Campuchia, 12% ở Philippines, 12,5% ở Sri Lanka, 13% ở Mông Cổ, 15% ở Bangladesh và 17% ở Trung Quốc. Ấn Độ vừa triển khai hệ thống Thuế Hàng hóa và Dịch vụ (GST) từ 20% trở lên tùy theo mặt hàng. Do đó, việc đề xuất tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng là phù hợp với thông lệ quốc tế.

– Ông đề cập rằng Việt Nam cần phải chấn chỉnh chính sách thu chi, đặc biệt là?

– Về chi ngân sách, cần nâng cao hiệu quả và tiết kiệm. Cần cắt giảm chi tiêu không hiệu quả. Nhưng đồng thời, Việt Nam phải đối mặt với nhu cầu đầu tư rất lớn. Việt Nam phải tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng và y tế và giáo dục của người dân Việt Nam. Do đó, cần thực hiện các bước tăng cường huy động nguồn thu nội địa để đảm bảo tiếp cận các nguồn lực đầu tư bền vững cho phát triển và tăng trưởng trong tương lai. Nếu các biện pháp này không được thực hiện kịp thời, nợ công sẽ gia tăng và các dịch vụ xã hội sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.

Do đó, điều quan trọng là phải thực hiện cải cách thuế để huy động nguồn thu. Trở lại đường đua của phát triển bền vững. Đồng thời, gánh nặng thuế phải được chia sẻ một cách công bằng, và môi trường tài khóa phải hỗ trợ phát triển và đầu tư.

Đề xuất sửa đổi một số luật thuế gần đây là một kế hoạch cải cách toàn diện và các lựa chọn chính sách rõ ràng cần được xem xét cẩn thận theo hướng này. . Đề xuất sửa một số luật thuế nhằm đơn giản hóa cơ cấu thuế suất cá nhân và thiết kế thuế suất lũy tiến hơn. Dự án cũng tăng thuế tài nguyên, sẽ tạo thêm nguồn thu cho ngân sách quốc gia và mang lại lợi ích bảo vệ môi trường … – Anh Minh

Leave a comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *