Tiến sĩ Deepak Mishara cho rằng, kinh tế vĩ mô Việt Nam đã ổn định trong những tháng gần đây, và trải qua thời kỳ khó khăn trong năm 2010 và đầu năm 2011, khi lạm phát có lúc tăng hơn 20% do biến động thị trường. . .
Tuy nhiên, điều thực sự đáng lo ngại là tốc độ tăng trưởng đã chậm lại. Trong ba năm qua, tốc độ tăng trưởng hàng năm đã giảm 3 điểm phần trăm. Đặc biệt năm 2012, tốc độ tăng trưởng GDP thấp nhất trong vòng 14 năm, chỉ 5,03%. thuộc kinh tế. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2013 là 5,5%.
Điều quan trọng nhất trong dự báo này là rủi ro đối với nền kinh tế, tức là lạm phát cơ bản (lạm phát phi lương thực). Và nhiên liệu) vẫn còn rất cao theo điểm chuẩn toàn cầu. Đây là điều khiến Việt Nam tập trung vào các vấn đề chính sách, đặc biệt là trong ngành ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước và đầu tư công.
Trong dịp lễ hội mùa xuân, Việt Nam phải thực hiện nhiều biện pháp hành chính để kiểm soát giá cả. Tuy nhiên, giá cả do thị trường quyết định bởi vì lạm phát sẽ tăng hoặc giảm theo nhu cầu thị trường. Các biện pháp hành chính có thể ảnh hưởng đến giá cả của một số ngành hàng nhất định, nhưng về lâu dài vẫn có thể có tỷ lệ lạm phát cao hơn, cao hơn mức lạm phát do thị trường kiểm soát. Trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2010, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tương đối thấp so với nhập khẩu, nhưng gần đây, dự trữ ngoại hối hàng tháng đã tăng đều đặn, duy trì nhập khẩu trong ba tháng. Khi nghi ngờ, mọi người sẵn sàng đổi lá chắn thành đô la Mỹ và các loại tiền tệ khác. Do đó, Việt Nam vẫn chưa tính toán mức dự trữ ngoại hối cao hơn để ứng phó với những biến động (nếu có). Rủi ro cũng có thể đến từ việc nới lỏng chính sách tiền tệ quá sớm. Ngày nay, mọi người muốn tăng vốn và dòng tiền, và giữ lạm phát ở một con số. Nhưng nên nhớ rằng, khi tỷ lệ lạm phát cao vào năm 2007, Việt Nam đã làm giảm tính thanh khoản của thị trường, nhưng đến các năm 2009, 2010 và 2011, tỷ lệ lạm phát tiếp tục tăng. Ngay cả khi nó không liên quan đến cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế, nó có thể quay trở lại mức 13-14%, có khả năng ảnh hưởng đến lạm phát. Vấn đề này được coi là một rủi ro mà Việt Nam cần quan tâm.
Nợ xấu không phải là vấn đề mới đối với Việt Nam, nhưng là vấn đề nhức nhối. Nhiều phương án xử lý nợ xấu đã được đưa ra như thành lập công ty mua bán nợ. Tuy nhiên, nếu bạn muốn thành lập một công ty như vậy, bạn phải xem xét nguồn vốn, việc xác định giá chuyển nhượng, tính thanh khoản và tính minh bạch của hoạt động.
Ngoài ra, cần thực hiện các biện pháp phân loại nợ, yêu cầu dự phòng và hướng dẫn cơ chế vay để xử lý nợ xấu. Việt Nam cũng phải đầu tư nhiều hơn vào hệ thống quản lý rủi ro và tăng cường khuôn khổ quản lý, giám sát để ngân hàng thực sự trở thành cầu nối giữa người đi vay và người đi vay.
Đàn ông Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm nếu họ muốn giải quyết vấn đề của các doanh nghiệp nhà nước. Thủ tướng Chính phủ đã thực hiện các thời hạn sắp xếp doanh nghiệp công, như phương án sắp xếp lại các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước; thoái vốn đầu tư ngoài công nghiệp và xây dựng khuôn khổ kiểm soát hoạt động tài chính của doanh nghiệp công.
Tuy nhiên, Việt Nam phải thông qua luật đầu tư công để tăng cường quản trị công ty và minh bạch. Thông tin minh bạch hơn. Đây là những bước quan trọng để đạt được kết quả tốt trong trung hạn. Mặt khác, trong trung hạn, cần nhấn mạnh khả năng cạnh tranh. So với một số quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có xu hướng giảm năng lực cạnh tranh. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam đã giảm trong hai năm liên tiếp.
Có thể nói nếu nói đến chỉ số lạc hậu nhất hay chỉ số cơ sở hạ tầng thì năng lực cạnh tranh của Việt Nam không thể theo kịp tốc độ phát triển kinh tế. Đây cũng là một điểm có thể có tác động đến tăng trưởng. Tăng trưởng chậm lại của Việt Nam có tính chất chu kỳ, không thể sử dụng các chính sách kích thích tiền tệ. Do những biến động kinh tế toàn cầu, tăng trưởng của Việt Nam sẽ khó khăn hơn. Việt Nam sẽ phải dựa nhiều hơn vào các chính sách đúng đắn để đảm bảo tăng trưởng của mình.
Doanh Nhan Sai nóiò