Vấn đề thỏa hiệp – do quy mô nền kinh tế nhỏ và mức độ mở lớn, cấu trúc kinh tế hiện tại của Việt Nam đã khiến tác động của Covid-19 trở nên nghiêm trọng hơn. Ngành dịch vụ – Ngành có tỷ trọng chuyển dịch cơ cấu cao là ngành chịu tác động nặng nề nhất. Trong quý 1, GDP tăng 3,82%, giảm gần một nửa so với cùng kỳ năm ngoái. Cả sản xuất công nghiệp và doanh thu bán lẻ đều giảm, và chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp đạt nửa năm 2018.
Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Trưởng khoa Quản lý và Chính sách Công Fulbright. Ảnh: Fulbright-Tốc độ tăng xuất khẩu chỉ ở mức 0,5%, mức cao kỷ lục, trong khi tốc độ tăng trưởng âm của nhập khẩu là gần 2%. Điều này cho thấy công ty đang thiếu nguyên liệu cần thiết cho sản xuất. Khi các nền kinh tế lớn và thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam thực sự đạt Covid-19, tăng trưởng xuất khẩu trong quý II dự kiến sẽ còn yếu hơn.
Ngành công nghiệp thương mại – Do Covid-19, nền kinh tế trung lưu chịu tác động lớn. Số lượng công ty thành lập mới tăng 4,4% nhưng quy mô vốn và số lượng lao động lại giảm, so với quý I / 2019 thì số lao động đã giảm gần 1/4. Số lượng công ty tạm ngừng hoạt động hoặc chờ giải thể ngày càng tăng. Lên đến 26%.
Nguồn: Cục Thống kê Quốc gia
Hiện nay, nếu không có sự can thiệp kịp thời, hiệu quả của chính phủ, một số thành phần kinh tế và nhiều công ty có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho tăng trưởng, việc làm và nền kinh tế. Nhiều hệ quả xã hội tiêu cực khác.
Mọi quốc gia đều phải chấp nhận vấn đề thỏa hiệp này. Chính phủ cần phản ứng nhanh nhất và hiệu quả nhất với mọi nguồn lực để ngăn chặn khủng hoảng sức khỏe phát triển thành khủng hoảng kinh tế, thậm chí là khủng hoảng tài chính và nợ công. GDP bỏ qua mục tiêu phòng chống dịch. Hiện tại, duy trì tăng trưởng không phải là mục tiêu chính. Thật không may, nếu một vài điểm phần trăm của tăng trưởng GDP không giảm hoặc các biện pháp chống dịch bị kết thúc sớm, điều này có thể phải trả giá. Đủ để tạo nền tảng cho sự phục hồi sau khi khủng hoảng kết thúc. Thuận lợi ở đây nằm ở đời sống của người dân, sức khỏe của doanh nghiệp, hệ thống tài chính ngân hàng và niềm tin của đất nước đối với người dân.
Do đó, phản ứng của chính phủ đối với thiệt hại do Covid-19 gây ra trong hệ thống chính sách can thiệp phải đạt được các mục tiêu của nó, như giảm đường cong miễn dịch, bảo vệ sức khỏe của doanh nghiệp, xây dựng niềm tin xã hội và đặt nền tảng cho việc phục hồi và hạn hán. Hạn chế thiệt hại về sau.

Trong số đó, “đặt nền tảng để phục hồi” và “hạn chế thiệt hại trong tương lai” là quan trọng nhất, bởi vì khủng hoảng nào qua đi, vấn đề là chúng ta sẽ thoát khỏi khủng hoảng trong tình trạng đổ nát hay có cơ sở tư tưởng nào đó để vực dậy nền kinh tế .
Nếu chính sách đề xuất chỉ giải quyết được những vấn đề trước mắt mà thiếu tầm nhìn xa, thì trong tương lai không những không làm mất đi nền tảng để trùng tu mà thậm chí có thể gây ra những hậu quả không thể cứu vãn được trong tương lai.
Đề xuất ngừng xuất khẩu gạo gần đây là một ví dụ. Sản lượng gạo của Việt Nam vẫn ổn định, chỉ thấp hơn một chút so với cùng kỳ năm ngoái, và với đủ năng lượng để đảm bảo an ninh lương thực và đảm bảo xuất khẩu gạo, chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội. Hiệp hội xuất khẩu gạo, giá cao.
Chưa kể chúng ta rất bất công với khu vực nông nghiệp – nông dân – nông thôn, vốn là nền tảng của nền kinh tế Việt Nam khi Việt Nam khủng hoảng. Trên thực tế, nhiều người thất nghiệp ở các thành phố đã trở về nông thôn để xin tị nạn. Nếu không xuất khẩu được gạo thì nông thôn sẽ bị bội thực và gánh nặng cho người nông dân sẽ tăng lên, họ đã phải gánh chịu rất nhiều thiệt hại do điều kiện thời tiết khắc nghiệt và hạn mặn. Anti-Covid-19
Về mặt chính sách tài khóa, các khoản chi tiêu công quan trọng nhất hiện nay liên quan đến y tế và phòng chống dịch bệnh. Nếu không dừng được cú sốc y tế, chắc chắn sẽ dẫn đến cú sốc kinh tế. Nếu chúng ta chấp nhận một suy thoái kinh tế tạm thời, về lâu dài, chúng ta sẽ có sức mạnh để chống lại dịch bệnh, và có lẽ chúng ta có thể khôi phục nền kinh tế trong tương lai. Nếu mặt trận y tế thất bại, chắc chắn sẽ dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính và các cuộc khủng hoảng khác.
Mặt khác, cần xây dựng các chính sách miễn, giảm, gia hạn và hoãn thuế. Doanh nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi Covid-19). Chính phủ cũng nên tăng chi tiêu cho các chính sách bảo trợ xã hội, trợ cấp xã hội và các dịch vụ xã hội cơ bản. Nếu chính phủ không hỗ trợ một số lượng lớn người nghèo và người nghèo, họ sẽ trở nên nghèoa, nguy cơ mất ổn định xã hội.
Trong nhiều hình thức trợ giúp xã hội, chính phủ có thể xem xét hỗ trợ người dân bằng cách trừ trực tiếp các chi phí sinh hoạt cơ bản vào hóa đơn điện nước, chẳng hạn như một khoản cố định 100.000 đồng mỗi tháng. Hóa đơn tiền điện. So với tỷ lệ trợ cấp (hiện nay là 10%), trợ cấp cố định hàng tháng sẽ hỗ trợ người nghèo ở mức tối đa mà không làm tăng gánh nặng ngân sách. Tiền tệ, điều quan trọng nhất là đảm bảo tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại, từ đó hỗ trợ tính thanh khoản của dịch vụ. Ngoài ra, cũng có thể cho phép tổ chức lại hoạt động kinh doanh, tín dụng tiêu dùng như giãn nợ, trả chậm, không đưa vào danh mục nợ khó đòi, vì đây là rủi ro từ trên trời rơi xuống chứ không phải lỗi của doanh nghiệp và người dân trong đầu tư công. , Chính phủ phải tập trung vào hai mục tiêu: không chỉ để kích thích phát triển kinh tế, mà còn giúp khôi phục năng lực. Do đó, việc thiếu kinh phí hiện tại cho công nghệ thông tin và truyền thông (5G), năng lượng tái tạo và các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn đã bị chặn, trì hoãn và các nền tảng giáo dục trực tuyến. Các dịch vụ y tế trực tuyến, y tế từ xa, thanh toán không dùng tiền mặt, thương mại điện tử … cần được ưu tiên đầu tư.
Một trong những ưu tiên chính của chính phủ là thiết lập niềm tin rằng chính phủ đang hành động nhanh chóng và hiệu quả. Lợi ích của công dân và doanh nghiệp. Khi đó, chính phủ tự tin sẽ thoát khỏi cuộc khủng hoảng này và các chính sách trong tương lai của họ sẽ hiệu quả hơn.
Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh
Trưởng khoa Quản lý và Chính sách Công Fulbright