Dư chấn 5 năm do khủng hoảng tài chính toàn cầu của Việt Nam

Nguồn suy giảm tăng trưởng kinh tế: Cục Thống kê Quốc gia. Đơn vị:% Từ 2002 đến 2007, Việt Nam được coi là một trong những điểm mạnh của bản đồ kinh tế thế giới, với tốc độ tăng trưởng trung bình là 7,8%. Kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, tăng trưởng GDP đã đạt gần 8,5%.

Kể từ khi bùng nổ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, Việt Nam bị ảnh hưởng bởi thị trường xuất khẩu chính và thị trường nội địa, sức mua chậm hơn. Trong giai đoạn này, tăng trưởng GDP đã ở mức dưới 7% và cho thấy xu hướng giảm. Năm 2012, nó chỉ đạt 5,03%, chưa bằng 2/3 mức trước khủng hoảng. Chính phủ đã đưa ra kế hoạch kích thích 1 tỷ đô la vào năm 2009, nhưng do những yếu kém bên trong, nền kinh tế không thể sụp đổ. Nhà kinh tế Fan Zhilan cho rằng: “Việt Nam không thể thoát ra khỏi khủng hoảng với tốc độ tăng trưởng thấp như vậy.”

Năm 2013 là năm quan trọng đối với kế hoạch 5 năm (2011-2015), nhưng tốc độ tăng trưởng GDP có thể chỉ đạt 5,2. 5,3%, sẽ khuyến khích mục tiêu 7 đến 7,5% trong những năm tới. Bà Lan cho rằng nếu các điều chỉnh cơ cấu được thực hiện triệt để và khắc phục được các nút thắt thì Việt Nam vẫn có cơ hội thoát khỏi khủng hoảng.

Tăng trưởng kinh tế đã suy thoái. Nguồn: Cục Thống kê Quốc gia. Đơn vị:% Từ 2002 đến 2007, Việt Nam được coi là một trong những điểm mạnh của bản đồ kinh tế thế giới, với tốc độ tăng trưởng trung bình là 7,8%. Kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, tăng trưởng GDP đã đạt gần 8,5%.

Kể từ khi bùng nổ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, Việt Nam đã bị ảnh hưởng bởi thị trường xuất khẩu chính và thị trường nội địa, và sức mua của nó đã chậm lại. Trong giai đoạn này, tăng trưởng GDP đã ở mức dưới 7% và cho thấy xu hướng giảm. Năm 2012, nó chỉ đạt 5,03%, chưa bằng 2/3 mức trước khủng hoảng. Năm 2009, có kế hoạch kích cầu kinh tế trị giá 1 tỷ USD, nhưng do những yếu kém nội tại nên nền kinh tế không thể suy sụp. Chuyên gia kinh tế Fan Zhilan nói: “Việt Nam không thể thoát khỏi khủng hoảng với mức tăng trưởng yếu như vậy.”

2013 là một năm rất quan trọng đối với kế hoạch 5 năm (2011-2015), nhưng tăng trưởng GDP chỉ có thể đạt 5,2 đến 5,3%. Sẽ mất vài năm để đạt được mục tiêu từ 7% đến 7,5%. Lan cho biết, nếu điều chỉnh cơ cấu được thực hiện triệt để khắc phục nút thắt, Việt Nam vẫn có cơ hội thoát khỏi khủng hoảng.

Vũ điệu lạm phát: Cục Thống kê Quốc gia. Đơn vị:% Trong 5 năm qua, nó luôn là vấn đề đau đầu đối với các nhà quản lý. Nó đã kiểm soát lạm phát, nhưng vì ưu tiên cao của tăng trưởng và thâm hụt thương mại dài hạn. Kết quả cuối cùng của quá trình này là tỷ lệ lạm phát năm 2008 đạt gần 20%, duy trì hai con số trong năm 2010 và 2011. Trong giai đoạn này, nhiều tổ chức quốc tế bày tỏ lo ngại về sự xuống cấp của môi trường của họ do lạm phát cao. Thị trường thương mại tại Việt Nam đã ảnh hưởng đến giá trị của đồng Việt Nam.

Từ năm 2012, chính phủ đã thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát và luôn ghi nhớ mục tiêu này. Chỉ số giá tiêu dùng đã giảm xuống một con số, nhưng kết quả tiếp theo là tăng trưởng tín dụng yếu và giảm vốn đầu tư xã hội. Ngoài ra, một số nhà phân tích cho rằng thời kỳ lạm phát thấp chủ yếu là do nhu cầu yếu, và rủi ro tăng giá vẫn tồn tại. Đơn vị:% Trong 5 năm qua, nó luôn là vấn đề đau đầu đối với các nhà quản lý. Nó đã kiểm soát lạm phát, nhưng vì ưu tiên cao của tăng trưởng và thâm hụt thương mại dài hạn. Kết quả cuối cùng của quá trình này là tỷ lệ lạm phát năm 2008 đạt gần 20%, duy trì hai con số trong năm 2010 và 2011. Trong giai đoạn này, nhiều tổ chức quốc tế bày tỏ lo ngại về tỷ lệ lạm phát cao làm xấu đi môi trường. Thị trường thương mại tại Việt Nam đã ảnh hưởng đến giá trị của đồng Việt Nam.

Kể từ năm 2012, chính phủ đã thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát và luôn ghi nhớ mục tiêu này. Chỉ số giá tiêu dùng đã giảm xuống một con số, nhưng hậu quả tiếp theo bao gồm tăng trưởng tín dụng yếu và giảm đầu tư xã hội. Ngoài ra, một số nhà phân tích cho rằng thời kỳ lạm phát thấp chủ yếu là do cạn kiệt nhu cầu, và rủi ro tăng giá vẫn tồn tại.

– Suy giảm vốn đầu tư xã hội Nguồn: Cục Thống kê Quốc gia “Đừng mong cắt giảm đầu tư, nhưng vẫn duy trì tăng trưởng mạnh”. Suy thoái kinh tế đã thắt chặt đầu tư công để kiểm soát lạm phát, dẫn đến đầu tư tính theo tỷ lệ phần trăm GDP trong ba năm qua Tiếp tục giảm, dưới 30% GDP trong nửa đầu năm.u chiếm 40% GDP trước năm 2013. Tình trạng này thật đáng tiếc cho nền kinh tế Việt Nam, vốn chỉ dựa vào đầu tư để đạt được tăng trưởng trong nhiều năm.

Trong trường hợp này, để giúp nền kinh tế thoát khỏi “sự phát triển mềm”, nhiều chuyên gia đề xuất. Ước tính chính phủ sẽ đưa ra kế hoạch kích thích từ 100.000 đồng đến 2.000 nghìn tỷ đồng để kích thích tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, phát ngôn viên chính phủ, ông Vũ Đức Đàm đã nhiều lần khẳng định rằng sẽ không có kế hoạch kích thích vì mục tiêu hiện tại vẫn là ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. -Các giải pháp được đề xuất trong quá khứ, chẳng hạn như cắt giảm thuế, cắt giảm thuế, hỗ trợ thế chấp hoặc thủ tục thanh lý nợ xấu của VAMC, cũng đặc biệt kích thích. Do đó, không thể mong đợi một sự phục hồi kinh tế lớn tại thời điểm này.

Vốn đầu tư của toàn bộ công ty sẽ giảm đi rất nhiều “, ông Đỗ Thục, tổng giám đốc Cục Thống kê cho biết, suy thoái kinh tế và thắt chặt đầu tư công để kiểm soát lạm phát đã dẫn đến tỷ lệ đầu tư / GDP giảm liên tục trong ba năm qua, chiếm GDP trong nửa đầu năm 2013. Tỷ lệ này chưa đến 30%, trong khi tỷ lệ GDP trước đây là 40%, thực trạng này là đáng tiếc cho nền kinh tế Việt Nam, vốn nhiều năm chỉ dựa vào đầu tư để đạt được tăng trưởng.

Trong trường hợp này, giúp Nền kinh tế thoát khỏi “phát triển mềm”, và nhiều chuyên gia đề xuất. Chính phủ nên xây dựng kế hoạch kích thích khoảng 100.000 đến 2.000 nghìn tỷ đồng để kích thích tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, phát ngôn viên chính phủ Vũ Đức Đầm. ) Đã nhiều lần khẳng định rằng sẽ không có kế hoạch kích thích kinh tế, vì mục tiêu hiện tại vẫn là ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. – Giải pháp đưa ra thời gian qua, như gia hạn VAMC, cắt giảm thuế, hỗ trợ thế chấp hoặc thủ tục thanh lý nợ xấu, v.v. Hầu hết chúng đều có tác dụng khuyến khích nên không thể mong đợi sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ như hiện nay.

Vấn đề sản xuất công nghiệp, lượng hàng tồn kho lớn Nguồn: Cục Thống kê Quốc gia. Đơn vị:% Từ năm 2007, ngành công nghiệp Việt Nam đã phát triển nhanh chóng và được coi là Hoàn thành trụ cột của công nghiệp hóa vào năm 2020. Tuy nhiên, trong 5 năm qua, do ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới, ngành công nghiệp Việt Nam đã dần suy yếu, sức mua trong nước giảm và nhu cầu xuất khẩu giảm. Năm 2012, khi chỉ số sản xuất công nghiệp giảm xuống dưới 5%, Ngành công nghiệp đang tăng trưởng ở mức báo động, số liệu tồn kho cho thấy nhiều ngành công nghiệp chủ chốt như khai khoáng, thép đang gặp khó, kho công nghiệp tăng cao. Từ đó, chính phủ Việt Nam đã phải đưa ra nhiều giải pháp để tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy tăng trưởng, như hạ lãi suất , Để tạo điều kiện giảm hàng tồn kho của công ty. Năm 2013, thị trường tăng nhẹ, nhưng vẫn ở mức rất thấp.

Sản xuất công nghiệp khó khăn và hàng tồn kho rất lớn. Nguồn: Cục Thống kê. Đơn vị:% Từ năm 2007, Việt Nam Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp được coi là trụ cột của công nghiệp hóa vào năm 2020. Tuy nhiên, trong 5 năm trở lại đây, do ảnh hưởng của nền kinh tế toàn cầu và hoạt động mua hàng trong nước, ngành này ở Việt Nam đã giảm dần nhu cầu điện năng và xuất khẩu. Trong năm 2012, khi Khi chỉ số sản xuất công nghiệp tăng dưới 5% thì tốc độ tăng của các nhóm công nghiệp là đáng kinh ngạc, số lượng còn lại chứng tỏ nhiều ngành công nghiệp trọng điểm như khai thác, sản xuất thép đang kéo sợi, toàn bộ ngành đều có kho bãi cao, từ đó chính phủ phải đưa ra nhiều giải pháp Các chương trình khắc phục khó khăn và thúc đẩy tăng trưởng, như hạ lãi suất, tạo điều kiện giảm hàng tồn kho của công ty. Thông qua hành động này, sản xuất công nghiệp của Việt Nam tăng nhẹ trong 8 tháng đầu năm 2013, nhưng vẫn ở mức rất thấp. Nguồn: Cục Thống kê Quốc gia. Trước cuộc khủng hoảng kinh tế, tổng lượng hàng hóa và dịch vụ tăng 31%. Tuy nhiên, khi thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, tăng trưởng kinh tế suy giảm và cuộc sống của người dân rất khó khăn. , Tốc độ tăng trưởng của chỉ số này đã giảm kể từ năm 2010. Điều này phản ánh sự sụt giảm nhu cầu. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Báo cáo khảo sát cũng chỉ ra rằng, trở ngại lớn nhất mà các công ty gặp phải không còn là lãi suất, mà là thị trường tiêu thụ. – Sức mua thấp và khó tiêu thụ hàng hóa Nguồn: Văn phòng Tổng cục – Trước khủng hoảng kinh tế, tổng số hàng hóa và dịch vụ bán lẻ tăng 31%, nhưng khi thị trường xuất khẩu thắt chặt. , Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng của chỉ tiêu nàyy đã giảm kể từ năm 2010, phản ánh sự suy giảm nhu cầu. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cũng chỉ ra trong báo cáo khảo sát kinh doanh gần đây của mình rằng khó khăn lớn nhất đối với các công ty không còn là lãi suất, mà là thị trường tiêu dùng. -Số lượng công ty “được tạo ra” đang giảm. Nguồn: Bộ quản lý đăng ký kinh doanh đã giảm số lượng công ty mới thành lập lần đầu tiên kể từ năm 2010, kể từ khi “Luật doanh nghiệp” có hiệu lực. Ngoài ra, số lượng các công ty thoát khỏi thị trường cũng chiếm tỷ lệ lớn. Theo bài phát biểu của Ngoại trưởng Tron Sangsang, cho đến nay, trong số khoảng 600.000 công ty đã đăng ký, chỉ có 380.000 đơn vị đang hoạt động và 70% trong số đó là “bị thương”, có nghĩa là họ không có hoạt động kinh doanh. . Bà Fan Zhilan cho biết: “Điều này cho thấy những khó khăn của công ty vẫn còn tồn tại, chẳng hạn như thị trường trong nước sụt giảm, niềm tin suy giảm do sức mua của nền kinh tế rất thấp.” – Số lượng công ty “thành lập” ngày càng giảm. Nguồn: Cục Quản lý Đăng ký Kinh doanh từ năm 2010 , Kể từ khi “Luật doanh nghiệp” có hiệu lực, lần đầu tiên số lượng doanh nghiệp mới thành lập đã giảm. Ngoài ra, số lượng các công ty thoát khỏi thị trường cũng chiếm tỷ lệ lớn. Theo bài phát biểu của Ngoại trưởng Chen Rongsheng, cho đến nay, trong số khoảng 600.000 công ty đã đăng ký, chỉ có 380.000 đơn vị đang hoạt động và 70% trong số đó là “bị thương”, có nghĩa là không. Không sao, Fan Zhilan nói: “Điều này cho thấy với sự suy giảm của thị trường nội địa, vẫn còn khó khăn kinh doanh, bởi vì sức mua của nền kinh tế rất thấp và niềm tin của mọi người đã giảm.” – Thu hút đầu tư nước ngoài rất khó khăn. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đơn vị: tỷ USD Trong thời đại kinh tế toàn cầu có nhiều xáo trộn, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh. Từ gần 72 tỷ đô la Mỹ năm 2008 đến nay, chỉ khoảng 13 tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Các chuyên gia trong ngành kế hoạch đầu tư cho biết: “Việt Nam từng là điểm đầu tư hấp dẫn nhất Đông Nam Á, nhưng từ năm 2009, do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đầu tư giảm mạnh.” Ngoài ra, những trở ngại chính trong lĩnh vực thu hút đầu tư cũng ngày càng gia tăng. Rõ ràng, chẳng hạn như chất lượng công việc thấp, chính sách đầu tư hạn chế, tham nhũng, v.v. Khó khăn trong đầu tư nước ngoài. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đơn vị: tỷ USD Trong thời đại kinh tế toàn cầu có nhiều xáo trộn, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh. Từ gần 72 tỷ đô la Mỹ năm 2008 đến chỉ 13 tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Một chuyên gia trong ngành kế hoạch đầu tư cho biết: “Việt Nam là điểm đầu tư hấp dẫn nhất Đông Nam Á, nhưng từ năm 2009 đến nay, do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đầu tư giảm mạnh”. Ngoài ra, những trở ngại chính đối với sức hấp dẫn cấp cao ngày càng trở nên rõ ràng như chất lượng lao động thấp, chính sách thu hút đầu tư hạn chế, tham nhũng …—— Tốc độ tăng trưởng GDP chậm nhất năm trước cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Tỷ lệ lạm phát và sự tăng trưởng của công nghiệp và dịch vụ đang giảm dần, điều đó cho thấy nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể thể hiện rõ những điểm yếu khi vượt qua chúng. Với những điểm yếu này, hy vọng Việt Nam thoát khỏi vòng xoáy khủng hoảng.

Leave a comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *