Dự kiến phát triển điện vào năm 2025. Đến năm 2015, công suất lắp đặt sẽ tăng thêm khoảng 30.000 MW. Đến năm 2020, công suất hệ thống phải tăng từ 50.000 MW lên 60.000 MW. Để có được những khả năng trên, đến năm 2020, tổng vốn đầu tư của ngành điện ước tính là 50 tỷ đô la Mỹ. – Trung bình, ngành điện phải chi 5 tỷ đến 6 tỷ đô la Mỹ mỗi năm để phát triển năng lượng, bao gồm cả phát triển mạng lưới. Nhu cầu đầu tư vào phát triển mạng lưới đã mang lại nhiều khó khăn cho ngành điện.
Về nguyên tắc, các quỹ phát triển cho ngành điện có thể được huy động bằng cách tích lũy công nghiệp, các khoản vay trong nước và nước ngoài hoặc ngân hàng hoặc trái phiếu. Vấn đề, đầu tư tư nhân hoặc phát hành cổ phiếu và đầu tư ngân sách. Hầu hết các quốc gia áp dụng ba đầu tiên, trong khi thứ ba trước đó chỉ tồn tại trong khuôn khổ của nền kinh tế kế hoạch và nền kinh tế bao cấp. Trên thực tế, tại Việt Nam, ba phương pháp đầu tiên được sử dụng, nhưng ngành điện đã trải qua sự phát triển đau đớn và vẫn trong tình trạng thiếu vốn.
Theo ông Shipp, giá điện trung bình ở Việt Nam chỉ đạt khoảng 60% đến 70% chi phí cận biên dài hạn. Ảnh: Hoàng Hà.
Có nhiều lý do cho tình trạng này, chủ yếu là do giá điện ở Trung Quốc thấp. . Theo ông Ship, về lâu dài, giá điện ở Việt Nam chỉ chiếm 60% đến 70% chi phí cận biên. Bây giờ, giá điện trung bình cho sinh hoạt đã tăng lên 6,5 cent mỗi kWh, trong khi chi phí cận biên dài hạn là 8 đến 9 cent mỗi kWh. Điều này đã dẫn đến việc nén giá điện quá mức và làm biến dạng thị trường điện.
Dữ liệu khảo sát cho thấy Việt Nam hiện là một trong số ít các quốc gia trên thế giới có giá điện thấp. Như ở châu Á, quốc gia có giá nội địa cao nhất với giá năm 2008 là Nhật Bản, với 20 xu mỗi kWh, tiếp theo là Singapore và Hàn Quốc, với lần lượt 14,3 cent và 10,2 cent. KWh, theo thứ tự. Các quốc gia có giá điện thấp nhất là Ấn Độ và Kazakhstan, lần lượt đạt 4,7 cent và 4,3 cent mỗi kWh. Giá điện ở Thái Lan và Indonesia cũng cao hơn từ 20% đến 30% so với Việt Nam.
Do giá điện thấp, lợi nhuận của điện không thể được tích lũy hoặc tích lũy không đủ để tái đầu tư, vì vậy nó phải được sử dụng. Chủ yếu là chìm vốn. Cũng do giá thấp, thời gian trả nợ thường được kéo dài. Do đó, rất nhiều ngân hàng khó chấp nhận thanh toán, chưa kể hầu hết các ngân hàng ở Việt Nam đều yếu, và các ngân hàng nước ngoài khó cạnh tranh.
Nếu có ngân hàng, họ cũng cố gắng tạo áp lực. Những yếu tố này đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy rằng thị trường điện Việt Nam không hấp dẫn, do đó hạn chế đầu tư vào ngành điện. Do đó, ông Shipp cho rằng để có vốn đầu tư vào phát triển điện, cách duy nhất là tăng giá điện.
Ông Shipp nói rằng một cân nhắc khác là giá điện thấp khiến người tiêu dùng không có động lực để tiết kiệm khi sử dụng nó. Để loại bỏ những người tiêu dùng đang nản lòng vì giá tăng, ngành điện phải sửa đổi chỉ số giá điện hiện tại và xác định giá dựa trên thời gian sử dụng.
“Trong số giá thủy điện, giá điện luôn cao nhất, tiếp theo là giá dịch vụ và điện thương mại, và giá điện công nghiệp. Ở nhiều nước, giá điện công nghiệp chỉ bằng 50% so với điện dân dụng. 60%. Giá dịch vụ và thương mại tương đương với giá sử dụng dân cư. Đồng thời, ở nước ta, sự khác biệt này không lớn. “- Ông nói.
Theo ông Shipp, trong tương lai gần, ở nước ta, giá điện sẽ thay đổi theo thứ tự cao nhất của sử dụng dân sự và thương mại. Thứ hai là công nghiệp, và cuối cùng là nông nghiệp và gia đình nghèo. Tuy nhiên, điều này cần lưu ý vì nó vi phạm nguyên tắc trợ giá chéo của giá điện mà nhiều người muốn loại bỏ. Một phương pháp khác để buộc sử dụng năng lượng hiệu quả là giá điện dựa trên thời gian, bởi vì điều này đã được áp dụng trong một thời gian dài bởi nhiều nước phát triển.
Công suất giá dựa trên thời gian luôn chú ý đến điện, chú ý đến chế độ tốt nhất của thiết bị điện. Ngoài ra, có thể có các quy định cho một cơ chế điều chỉnh giá tự động hàng năm dựa trên chỉ số giá tiêu dùng hoặc tỷ lệ lạm phát của năm trước.
Khi giá tăng, cần phải tiến hành điều chỉnh cơ cấu và cải cách ngành điện. Theo thông lệ hiện nay, giá điện tăng sẽ luôn gây ra phản ứng tiêu cực từ dư luận. Điều này đúng không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở nhiều quốc gia chưa thương mại hóa ngành điện.
“Sau khi hủy bỏ cơ chế độc quyền, thị trường sẽ xác định giá.tiêu dùng. Nhưng phương pháp này phải được thực hiện từng bước và có một bản đồ đường đi, “ông Shipp nói.