Những thay đổi trong chuỗi cung ứng có thể chậm lại vào năm 2021

Báo cáo của Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế – Xã hội Quốc gia (NCIF) công bố ngày 20/1 chỉ ra rằng chỉ trong 5 năm tới (2021-2025) mới có thể kiểm soát được những thay đổi trong chuỗi cung ứng. -Covid-19, mặc dù tiếp tục đẩy nhanh những thay đổi trong chuỗi cung ứng do căng thẳng thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ gây ra, nhưng vẫn còn một số trở ngại đối với nước chủ nhà.

Theo NCIF, có bốn xu hướng chính có thể định hình những thay đổi của chuỗi cung ứng, bao gồm: rút ngắn chuỗi (tái định vị); đa dạng hóa chuỗi (đa dạng hóa); khu vực hóa và nhân rộng. Nhóm nghiên cứu cho biết, tùy theo từng nhóm ngành cụ thể và mức độ tự động hóa, số hóa mà việc phát triển chuỗi cửa hàng có thể khác nhau. Tuy nhiên, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu gắn với những thay đổi trong chuỗi có thể giảm.

Theo NCIF, các ngành di động nhiều nhất là dệt may, da giày, lắp ráp điện tử, thiết bị cơ khí và dịch vụ hậu cần. Đồng thời, các ngành có động lực cao nhưng tốc độ tăng thấp là dược phẩm, điện tử tiêu dùng và sản phẩm công nghệ cao. Nguyên nhân là do khó tìm được các nguồn lực bên ngoài thay thế để đáp ứng các yêu cầu về công nghệ, cơ sở hạ tầng và kỹ năng nhân sự.

Việt Nam được coi là điểm đến thuận lợi cho chuyển động chuỗi. Cung cấp triển vọng tăng trưởng tốt như kiểm soát dịch bệnh hiệu quả; chi phí lao động thấp; ký kết hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; vị trí gần Trung Quốc; sự gia tăng của tầng lớp trung lưu kích thích tiêu dùng trong nước; sự sẵn có của các khu công nghiệp … – Nhưng, NCIF Nó cũng chỉ ra rằng trình độ công nghệ và lao động còn hạn chế, giá nhân công hiện đang ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng nhanh và không tương thích với tốc độ tăng năng suất lao động và cơ sở hạ tầng kém phát triển. .. Do đó, đây là những trở ngại chính khiến Việt Nam khó thu hút các ngành đòi hỏi năng lực sản xuất, công nghệ, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Chất lượng cao.

Tương tự, theo NCIF, do công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển nên hoạt động sản xuất của Việt Nam chủ yếu là gia công, lắp ráp. Một số ngành cung cấp đầu vào có năng suất lao động cao được xuất khẩu sang nhiều thị trường nhưng chủ yếu do các công ty đầu tư trực tiếp nước ngoài sản xuất. Ví dụ, ngành quần áo, da giày thầu phụ và chủ yếu nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài. Các công ty thượng nguồn có khả năng cung cấp hạn chế, ngoại trừ một số ngành sản xuất nhựa và cao su tổng hợp có năng suất cao hơn.

Giống như sản phẩm điện tử, mặc dù là nước xuất khẩu lớn thứ mười hai thế giới và đứng thứ ba ASEAN, nhưng 95% giá trị thuộc về các công ty đầu tư trực tiếp nước ngoài, chủ yếu ở khâu gia công và lắp ráp.

Để giúp Việt Nam tiếp cận các cơ hội trong chuỗi cung ứng, NCIF đề xuất bồi thường Do giá đất tăng nên kế hoạch cải thiện để tăng nguồn cung đất cho phát triển khu công nghiệp bị hạn chế. . Ngoài ra, cần nhanh chóng thích ứng nhiều cơ sở đào tạo với nhu cầu nhân lực trình độ cao; thực hiện miễn thuế, giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu để thúc đẩy sản xuất trong nước, nhưng không khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Trung tâm sản xuất thấp trong chuỗi cung ứng Châu Á.

Theo EIU, các yếu tố giúp Việt Nam nổi bật so với các nước trong khu vực bao gồm: các ưu đãi khuyến khích các công ty quốc tế mở nhà máy công nghệ cao, nguồn lao động dồi dào và giá rẻ, chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam và quốc tế kiểm soát thương mại và trao đổi Tất cả các điểm đều cao hơn Ấn Độ và Trung Quốc.

Leave a comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *