Tại Ấn Độ, giao dịch vàng miếng diễn ra trong thương mại bán lẻ trải dài khắp đất nước, với hơn 100.000 thợ kim hoàn và hơn một triệu cửa hàng bán lẻ. Nhiều nước trên thế giới cũng đã có tình trạng kiểm soát thị trường vàng trong thời gian dài. TS.Hồng Công Gia Khánh, Trưởng Khoa Kinh tế, Trường Đại học Tài chính-Ngân hàng-Luật chia sẻ kinh nghiệm quản lý vàng miếng toàn cầu.
– Thưa ông, các nguyên tắc chung của quản lý vàng miếng toàn cầu?
– Theo nguyên tắc chung trong quản lý vàng và kinh nghiệm của hầu hết các nước phát triển như Hoa Kỳ, Úc, Canada, Nhật Bản, thị trường vàng đã được mở cửa từ lâu. Thị trường vàng ở các nước này hoạt động theo các tiêu chuẩn rõ ràng và chủ yếu giao dịch chứng chỉ vàng thông qua các giao dịch tập trung. Trong số các nhà bán buôn ở Anh và Thụy Sĩ, tình trạng khai thác vàng quá mức (OTC) vẫn đang diễn ra. Các giao dịch này được tổ chức chặt chẽ, minh bạch và chủ yếu liên quan đến số vàng được cất giữ ở London bằng cách thay đổi quyền sở hữu vàng của các bên liên quan trong kho vàng này.
Ở Ấn Độ, việc giao vàng miếng phổ biến là vàng miếng rải rác trên thị trường bán lẻ trên cả nước, với hơn 100.000 thợ kim hoàn và hơn một triệu cửa hàng bán lẻ. Ảnh: Anh Nhật Anh
– Các quỹ tài chính hoạt động như thế nào so với vàng?
– Do vai trò đặc biệt của vàng, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) chia vàng thành hai loại: vàng tài chính được sử dụng như một tài sản tài chính và vàng thị trường cho mục đích sản xuất (trang sức, công nghệ), hàng tồn kho hoặc giá trị cửa hàng. Đồng thời, Quỹ Tiền tệ Quốc tế chia vàng tài chính thành hai loại: Loại thứ nhất bao gồm vàng tiền tệ, là vàng do các cơ quan quản lý tiền tệ nắm giữ như một phần của dự trữ chính thức của quốc gia và các tổ chức quốc tế. Cũng giống như Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thanh toán Quốc tế. Thứ hai, vàng phi tiền tệ là một trung gian tài chính, và các nhà kinh doanh vàng giữ vàng cho các mục đích thương mại và đầu tư. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, vàng phi tiền tệ nên được coi như bất kỳ hàng hóa nào khác trong nền kinh tế (Quỹ Tiền tệ Quốc tế, 2006).
– Nhưng châu Á có truyền thống tích trữ vàng. Chất lượng thế nào, thưa ông?
– Một số người có phương pháp tiết kiệm vàng truyền thống, và họ đã tổ chức kinh doanh vàng thành công thông qua giao dịch tập trung. Giao dịch này bao gồm vàng vật chất và vàng tài khoản. Cụ thể, các nước Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Trung Quốc, Hồng Kông… Ấn Độ và Trung Quốc là hai thị trường tiêu thụ vàng vật chất lớn nhất thế giới, chiếm hơn 42% nhu cầu trên. thế giới. Đồng thời, lâu nay hai quốc gia này kiểm soát rất chặt chẽ thị trường vàng, nhưng sau đó đã phải cải cách thị trường vàng để tự do hóa và đạt được những kết quả đáng kể. Kể từ năm 2003, Ấn Độ đã cho phép các ngân hàng giao dịch hợp đồng tương lai vàng trong nước hoặc quốc tế, nhưng không phải với các tổ chức phi ngân hàng. Tính đến cuối năm 2011, bốn sàn giao dịch quốc gia đã kinh doanh vàng. Kể từ năm 2006, các dẫn xuất vàng đã được phép giao dịch. Cho đến nay, các dẫn xuất vàng phổ biến nhất là ETF vàng.
Vào đầu năm 2012, có 30 loài ở Ấn Độ. Các ngân hàng bao gồm ngân hàng công, ngân hàng tư nhân và ngân hàng nước ngoài được phép nhập khẩu vàng và bạc để bán tại thị trường trong nước.
– Điều này có nghĩa là bây giờ họ có hai thị trường vật lý. Vật chất và phi vật thể?
– Có, thị trường bán lẻ vàng miếng OTC rất phổ biến đối với các nhà đầu tư và tổ chức kinh doanh vàng. Nhưng Ấn Độ không cần giao dịch vàng và bạc trên sàn chứng khoán mà có thể giao dịch trên thị trường bán lẻ toàn quốc, nơi có hơn 100.000 thợ kim hoàn và hơn 1 triệu cửa hàng chi tiết. — Mô hình quản lý vàng của Trung Quốc là gì?
– Nhu cầu vàng của Trung Quốc chỉ đứng sau Ấn Độ, đứng thứ hai thế giới, chiếm khoảng 16% tổng nhu cầu vàng của thế giới. Mặc dù Trung Quốc là nước sản xuất vàng lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 13% tổng nguồn cung vàng thế giới, nhưng nước này vẫn phải nhập khẩu vàng.
Từ năm 1996, Trung Quốc đã đẩy mạnh quá trình cải cách, từng bước tự do hoá thương mại, và sau đó xoá bỏ độc quyền nhà nước. Về vàng, bãi bỏ hệ thống cấp phép sản xuất, bán buôn, bán lẻ và không còn kiểm soát được giá vàng. Thưa ông, vào tháng 10 năm 2002, Sở giao dịch vàng Thượng Hải được thành lập với mục đích tổ chức kinh doanh vàng thay thế cho Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc.
– Thị trường vàng của Trung Quốc đã phát triển như thế nào kể từ năm 2011?
– Truyền thông kể từ và sau khi thị trường vàng mở cửaVới hoạt động ở Thượng Hải, kể từ năm 2000, giá vàng của Trung Quốc đã rất gần với giá vàng thế giới. Từ năm 2006, Trung Quốc đã cho phép các ngân hàng thương mại giao dịch các sản phẩm đầu tư bằng vàng với các nhà đầu tư. cá nhân. Cũng trong năm nay, hệ thống kinh doanh vàng miếng hai giá đã ra đời. Và năm 2007, các ngân hàng thương mại được phép tham gia kinh doanh vàng vật chất trên Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải và Sở giao dịch hàng hóa Thượng Hải.
Về thị trường bán lẻ, Trung Quốc chỉ được phép bán trang sức vàng duy nhất tại các cửa hàng bán lẻ trang sức do nước này kiểm soát. Chi nhánh địa phương của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc. Tất cả các giao dịch vàng miếng phải được thực hiện thông qua Sở giao dịch vàng Thượng Hải.
– Như vậy, Trung Quốc và Ấn Độ đã trải qua thời kỳ kiểm soát nhập khẩu vàng chặt chẽ, độc quyền sản xuất, phân phối độc quyền và kinh doanh vàng, nhưng thưa ông, liệu có đạt được thành công như mong đợi?
– Đúng vậy, sau khi cải cách, thể chế nhà nước vẫn quản lý việc sản xuất, bán buôn và bán lẻ vàng, nhưng nó được thực hiện thông qua một cơ chế minh bạch và không có độc quyền nhà nước hay tư nhân. Trên cơ sở điều phối cán cân thanh toán, chống buôn lậu được thực hiện linh hoạt. Ngân hàng trung ương không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhập khẩu hoặc sản xuất. Sau khi có đầy đủ các điều kiện, các chính sách quản lý sẽ được thực hiện theo nguyên tắc thị trường và mở cửa để thiết lập mối liên kết giữa thị trường trong và ngoài nước.
Phương pháp TP.HCM