– Đã 5 năm kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, và Việt Nam cũng là nước bị ảnh hưởng. Ông đánh giá thế nào về tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay?
– Để hiểu được sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong 5 năm qua, bạn phải xem xét các số liệu như tốc độ tăng trưởng hàng năm của GDP, tỷ lệ lạm phát và các ngành quan trọng khác như nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, xuất khẩu hoặc đầu tư trực tiếp nước ngoài Kết quả có thể thấy, tốc độ tăng trưởng GDP đã bị giảm sút rất nhiều. . Năm 2009 là năm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của khủng hoảng kinh tế và sau đó phục hồi vào năm 2010. Tuy nhiên, từ năm 2011 đến nay, tình hình kinh tế vẫn khó khăn và giảm dần hàng năm. Tốc độ tăng trưởng của các ngành như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ tương đối thấp, đặc biệt là năm 2012. Mức tăng trưởng của ngành này là nhỏ nhất từ trước đến nay, năm 2013 chưa có dấu hiệu phục hồi rõ rệt. Về cơ bản, không thể nói rằng Việt Nam đã hồi phục sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Vấn đề chính nằm ở điểm yếu nội tại của nền kinh tế, trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu, điểm yếu này càng lộ rõ do hội nhập. Vì tất cả đều bị ảnh hưởng, một số nước trong khu vực đã tăng trưởng tốt hơn Việt Nam, đặc biệt là trong hai năm qua, chẳng hạn như Indonesia và Philippines. Xuất khẩu tăng trưởng khá nhưng chủ yếu là do khu vực đầu tư nước ngoài, nếu tách ở cấp quốc gia thì tăng trưởng xuất khẩu sẽ giảm so với năm trước, hiện thị phần xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ còn khoảng 35%. -Điều này cũng cho thấy sự bất ổn của Việt Nam, trừ đi phần lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, tốc độ tăng của tổng thu nhập quốc dân thấp hơn nhiều so với tổng sản phẩm quốc nội (GNI là chỉ số tăng trưởng kinh tế trừ đi thành phần tài sản của vốn có thể chuyển nhượng). So với năm 2007 và 2008, khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam cũng đã giảm đi rất nhiều.
– Bạn nghĩ vấn đề nội bộ ở Việt Nam là gì? -Trong những năm gần đây, Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế vĩ mô đầy biến động với tỷ lệ lạm phát cao. Ngoài ra, nhiệm vụ quan trọng nhất của Chính phủ gần đây là tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất và vận hành, giải quyết các vấn đề về khả năng cạnh tranh đang giảm sút và khó khăn ngày càng tăng trong kinh doanh của Việt Nam. Nghị quyết của Chính phủ cũng liên quan đến tái cơ cấu nền kinh tế, đây vừa là mục tiêu ngắn hạn, vừa là mục tiêu trung và dài hạn của Việt Nam. Tuy nhiên, mặc dù chính phủ đã nhận thức được những vấn đề này, nhưng quá trình này vẫn chưa thực sự bắt đầu. Trong 3 lĩnh vực sắp xếp lại này, chỉ có 2 dự án là có đề án: sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng, việc triển khai các đề án cũng rất chậm.
Ví dụ, các cơ quan công quyền về tái cấu trúc doanh nghiệp chỉ dừng lại ở những người trình chính phủ phê duyệt dự án mà công ty không nắm được cách thức thực hiện dự án. Có vẻ như quá trình này hiện đang tập trung vào việc giảm đầu tư phi công nghiệp, và việc tái cơ cấu thực sự đòi hỏi phải hiểu cách thức hoạt động của các công ty, tập trung vào lĩnh vực chính nào và sự minh bạch. Sau khi tổ chức lại.
Đối với hệ thống ngân hàng, đến nay mới chỉ dừng lại ở việc hợp nhất, sáp nhập một số tổ chức yếu kém, và giải pháp xử lý nợ xấu vẫn là một bài toán. Cả nước đã thành lập công ty quản lý tài sản đại lý tín dụng (VAMC), nhưng việc giải quyết nợ xấu hệ thống ngân hàng hiện nay không phải là điều thần kỳ. Ngoài ra, việc củng cố hệ thống quản trị ngân hàng cũng là một câu chuyện không thể bào chữa. Cho đến nay, chưa có dự án tái cơ cấu đầu tư công, kinh phí giảm nhưng số lượng dự án vẫn tăng lên, có trường hợp chưa được phê duyệt.
Những điều trên cho thấy cơ cấu lại nền kinh tế chưa có nhiều nỗ lực thiết thực, sức ì và trở ngại còn lớn. Việt Nam vẫn chưa thể khắc phục được những vấn đề của chính mình thông qua những sai sót nội tại nghiêm trọng hơn các nước khác, do đó dẫn đến hậu quả của cuộc khủng hoảng. -Tóm lại, điều chắc chắn là Việt Nam đang là vấn đề số một và vẫn là điểm yếu của nền kinh tế chứ không chỉ do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
– Đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, số liệu thống kê cho thấy số lượng các công ty ngừng hoạt động và giải thể trong những năm gần đây. Bạn đánh giá thế nào về việc đánh chìm các yếu tố chính sẽ giúp kích thích nền kinh tế?
– Tôi nghĩ rằng vẫn còn quá nhiều vấn đề ở các công ty Việt Nam, và những vấn đề này liên tục tích tụ và bộc lộ. Rõ ràng hơn. Nếu tính từ năm 2010, 2011 đến nay, trong tổng số hơn 600.000 công ty (một phần ba), có khoảng 200.000 công ty đã giải thể và ngừng hoạt động.Đồng thời, số lượng sinh viên mới trong những năm gần đây ít đã làm giảm quy mô vốn và lao động.
Điều này cho thấy với sự suy giảm của thị trường trong nước, khó khăn của công ty vẫn còn tồn tại. Do sức mua của nền kinh tế thấp nên niềm tin giảm sút. Ngoài ra, do hệ thống ngân hàng gặp nhiều vấn đề nên các công ty Việt Nam chủ yếu dựa vào ngân hàng (vốn vay ngân hàng có thể chiếm 70 – 80% vốn công ty). Khăn ăn xếp chồng lên nhau.
Không chỉ vậy, môi trường kinh doanh dường như ngày càng trở nên tồi tệ. Ở Việt Nam, dù tuyên bố của chính phủ vẫn thể hiện quyết tâm nhưng cải thiện môi trường kinh doanh để chính phủ tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp là điều vô cùng khó khăn. Nhưng một khi được thực hiện, quá trình này gặp quá nhiều trở ngại ở các cấp độ khác nhau, nhiều biện pháp hay không được đưa vào thực hiện khiến các rào cản gia tăng, đặc biệt là nạn tham nhũng. Tăng trưởng yếu?
– Tôi nghĩ rằng tình hình trong tương lai sẽ trở nên rõ ràng hơn tùy thuộc vào quyết tâm và tiến độ cải cách. Nếu không có những chuyển biến rõ nét, nền kinh tế Việt Nam khó có thể vượt qua khủng hoảng hiện nay và tăng trưởng tốt trở lại trước khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu ập đến. Năm 2014 có thể tham gia các hiệp định mới như TPP, FTA và chiến lược công nghiệp hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản. Các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản gần đây cũng có dấu hiệu gia nhập. Chu kỳ mới, tăng trưởng tốt hơn. Đây là những cơ hội mà Việt Nam phải tận dụng và hỗ trợ cải cách để tạo động lực mới, kích thích xuất khẩu, đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Chìa khóa là dựa trên cải cách. Cải cách càng chậm, vấn đề kinh tế càng nghiêm trọng. Trong thời gian qua, chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội này, nhưng đừng bỏ lỡ cơ hội này, nếu không nắm bắt, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng thì khó khăn lại càng lớn hơn.
Huyền Thư — Khoa Quản trị Kinh doanh – Đại học FPT (FSB), theo Giám đốc Chính sách Công của Khóa học Kinh tế Kinh doanh Fulbright – Ruan Xuanqing cho biết, hội thảo “Kinh tế vĩ mô 2014-2015: Sự chuẩn bị của công ty” vừa rồi Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do trước đây, nền kinh tế sử dụng mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư và tín dụng ngân hàng. Khi khủng hoảng nổ ra, hiệu quả của mô hình này ngày càng yếu đi. Điều này đã gây mất cân đối kinh tế vĩ mô và rơi vào vòng xoáy của việc nới lỏng tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, khi bắt đầu tái cơ cấu, hoạt động đầu tư trong 3 năm qua mang tính bình đẳng và không có sự tăng trưởng. Ông Thành đề cập rằng sau khi Chính phủ nỗ lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong một năm, tỷ lệ tổng vốn đầu tư trên GDP đã giảm từ mức bình quân 39% năm 2005-2010 xuống 33,3% năm 2011 và 30,5% năm 2012. Đầu tư giảm, và tín dụng cũng giảm theo. Quy mô kinh tế. Tỷ lệ tín dụng ngân hàng trên GDP tăng từ mức đỉnh 136% năm 2010 lên 121% năm 2011 và 108% năm 2012. dần dần. Ông giải thích rằng sự đóng góp của Việt Nam cho nền kinh tế đến từ bốn khía cạnh: hộ nông dân cá thể, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân nhà nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trước đây, bốn tập đoàn này đã phát huy hết tiềm năng của mình, nhưng từ năm 2012, chỉ có các công ty đầu tư trực tiếp nước ngoài là còn mạnh. Hiện nay, chỉ có khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào xuất khẩu của Việt Nam. Ông Thành nhận định: “Về việc ngành nông nghiệp đang dần cạn kiệt, nếu có tăng trưởng như thời kỳ trước thì sẽ không còn nữa”.