Nhận định trên được ông Phan Lê Khôi, Phó Chủ tịch IB Group đưa ra tại hội thảo “Xu hướng phát triển ngành Quảng cáo tại Việt Nam và ngành Truyền thông Thế giới”.
Theo ông Khôi, thị phần của các công ty quảng cáo nước ngoài thậm chí có thể vượt 80%, do những năm gần đây, nhiều công ty trong nước đã bị các đối thủ cạnh tranh thâu tóm. Ông nói: “Có công ty bán cổ phần cho đối tác nước ngoài, thậm chí thỏa thuận mất tên.” Hội nhập mới được hơn 5 năm nhưng thị phần của ngành quảng cáo Việt Nam đã sớm rơi vào tay người nước ngoài. Ông Phan Lê Khôi cho rằng, các công ty nước ngoài có lợi thế hơn vì đã có lịch sử phát triển lâu đời. Ngoài ra, các công ty đa quốc gia khi vào Việt Nam cũng mong giới thiệu được các đối tác quảng cáo quen thuộc.
Tuy nhiên, nguyên nhân chính là do các công ty “ô tô” Việt Nam đã mất “quê hương” do đối thủ thiếu phản hồi. Ông Khôi cho rằng, các công ty trong nước “chỉ làm công ăn lương”, dựa vào cách cung cấp dịch vụ cho đối tác trong nước, không chuyên nghiệp, không sáng tạo; ngược lại, các đối thủ có tư duy chiến lược và luôn có những ý tưởng độc đáo, và họ còn hơn Phục vụ khách hàng tận tình. Nếu các công ty quảng cáo Việt Nam không giải quyết được vấn đề, trong tương lai gần, khi các công ty nước ngoài sẽ có quyền hoạt động hoàn toàn theo lộ trình gia nhập WTO, thì cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Đại diện của IB Group cho biết, các công ty nước ngoài tại Việt Nam cũng đang phải đối mặt với việc giảm ngân sách quảng cáo do kinh doanh khó khăn. Các nhà nghiên cứu và viện đào tạo về quảng cáo tại Việt Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Quảng cáo cho rằng sự phát triển của ngành quảng cáo phụ thuộc rất lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, do các công ty này có khả năng đầu tư mạnh vào quảng cáo. Ông Tùng cho rằng khó khăn hiện nay chỉ là vấn đề “cục bộ”, xảy ra ở các công ty quảng cáo nhỏ lẻ. Kinh tế trong nước suy thoái là cơ hội để các công ty nước ngoài gia tăng thị phần, vì vậy các thương hiệu lớn, công ty đa quốc gia tiếp tục đẩy mạnh quảng cáo. Thực tế đã chứng minh rằng doanh thu quảng cáo vẫn tăng khoảng 10%. Khi công ty phải tối đa hóa thu nhập chi tiêu, hình ảnh của ngành quảng cáo cũng sẽ thay đổi đáng kể. “Vấn đề mà các công ty phải đối mặt hiện nay không còn là quảng cáo như thế nào và chi bao nhiêu tiền mà là lựa chọn kênh quảng cáo nào và hiệu quả ra sao. Điều này đã tạo ra một sự thay đổi mạnh mẽ trong ngành quảng cáo.” Ông Khôi nhận xét: “Quảng cáo Việt Nam đã Kéo dài trong 3 năm.
Trước đây các công ty thường chọn các kênh truyền thống là quảng cáo ngoài trời, radio … thì nay phải chọn các kênh khác để giảm chi phí. Nó có ảnh hưởng lâu dài hơn và tương tác mạnh mẽ với công chúng, chẳng hạn như quảng cáo trên các trang web và mạng xã hội.
Một đại diện của Hiệp hội Quảng cáo cũng trích dẫn thông tin này sau khi duy trì vị trí thứ hai về doanh thu quảng cáo toàn cầu trong suốt 50 năm. Trong năm 2013, báo in sẽ mất vị thế của quảng cáo trên Internet. Trong tương lai, khi giới trẻ sử dụng TV ngày càng nhiều thì vị trí quán quân TV cũng sẽ bị thay thế bởi các thiết bị di động. Ông Đông cho rằng, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này.
Theo số liệu của một công ty nghiên cứu thị trường, năm 2012, doanh thu quảng cáo toàn cầu đạt gần 450 tỷ đô la Mỹ. Đồng đô la Mỹ tăng 5% so với năm trước. Trong số đó, quảng cáo trên TV chiếm 42%, báo và tạp chí chiếm 20%, liên quan mật thiết đến Internet chiếm 17%.
Theo số liệu của Kantar Media Vietnam do “Thời báo Kinh tế Sài Gòn” của Việt Nam công bố, tại Việt Nam, năm 2012, tỷ lệ này là 64%, ông cho rằng TV vẫn là kênh quảng cáo người tiêu dùng có ảnh hưởng nhất, sau đó là Internet. Chiếm 26%, báo in và tạp chí chiếm 18%. Trước đó, thị phần của quảng cáo trên TV năm 2011 là 80%, của tạp chí và báo là 16% và Internet chỉ là 4%.
Ông Dong nhận xét rằng quảng cáo truyền hình vẫn chiếm con số này vì sự tin tưởng lâu dài và độ phủ rộng khắp khu vực, post này. Ngược lại, do chi phí cao, quảng cáo ngoài trời gần như biến mất khỏi bảng xếp hạng. Anh Đông cho biết: “Giá thuê các bức tường quảng cáo có khi còn cao hơn cả tiền thuê cao ốc. Điều này thật nực cười”.