– Từ ngày 10 tháng Giêng, kinh doanh vàng bạc bắt đầu sử dụng một cơ chế mới có tên gọi là có tổ chức và minh bạch hơn. Vậy thưa ông, đâu là điểm khác biệt giữa những khách hàng bình thường dễ dàng nhận biết và tin tưởng giao dịch?
– Tất cả các đơn vị đã được Ngân hàng Quốc gia cho phép kinh doanh vàng. Mọi coin khi giao dịch đều phải sử dụng hệ thống thẻ điện tử, niêm yết giá công khai và tự động cập nhật theo động thái thị trường để thông báo rõ ràng điều này. Trên trang web của Ngân hàng Quốc gia, một danh sách đầy đủ các đơn vị được phép mua và bán vàng miếng cũng đã được công bố. Những ai muốn biết cũng có thể tìm kiếm. Tuy nhiên, về lâu dài, tôi cho rằng Bank Negara nên xem xét ban hành một nhóm chuyên gia tiêu chuẩn thống nhất để đảm bảo sự đồng bộ và dễ dàng nhận biết tại các cửa hàng ủy quyền, từ đó tạo dựng niềm tin cho khách hàng. .
– Theo cơ chế mới, người dân được lợi gì khi mua bán?
– Mạng lưới kinh doanh ban đầu là 12.000, nhưng hầu hết đều có quy mô nhỏ, thậm chí chỉ cần mặt tiền cửa hàng. Có thể mua bán vàng miếng, khi biến động xảy ra, việc dừng mua bán đột ngột khiến thị trường hỗn loạn. Hiện tượng này khó có thể xảy ra, vì 2500 cửa hàng nhượng quyền đều là những cửa hàng lớn, có tiềm năng rất lớn. Họ vẫn có đủ thời gian để chuẩn bị lượng vàng cần thiết phục vụ thị trường.
Khi toàn thị trường kinh doanh một thương hiệu vàng miếng (SJC), khách hàng có thể mua một nơi và bán cho nhiều địa điểm. , Thay vì mua những nơi bán hàng như trước đây. Sự chênh lệch giá giữa các cửa hàng (nếu có) cũng có thể được bỏ qua.
Các cửa hàng được cấp phép phải đảm bảo an ninh về hạ tầng, hiển thị giá công khai và tự động cập nhật bảng giá điện tử nên thông tin sẽ minh bạch hơn. Công ty cần chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa bán ra, đồng thời nên xuất hóa đơn, phiếu mua hàng cho khách hàng để hạn chế tình trạng vàng giả, vàng nhái.
Chủ tịch Tập đoàn Trang sức DOJI Đỗ Minh Phú. DOJI là một trong gần 40 đơn vị được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép mua, bán vàng miếng SJC.
– Nhưng, giảm đến 4/5, cửa hàng sẽ gây khó khăn cho người mua, nhất là ở những nơi mà công ty không muốn mua vàng?
– Tất nhiên, hiện tại, các công ty không thể mở rộng mạng lưới đến các vùng sâu, vùng xa, nơi mà việc buôn bán không còn thuận tiện như trước và không còn nhu cầu mua vàng ngoài đường. Nhưng trên thực tế, nhu cầu mua bán tại các khu vực này không mạnh, một số công ty cũng đã xác định địa điểm kinh doanh ở cấp khu vực. Với những người có nhu cầu thực tế, việc mua bán vàng tại các khu vực lân cận không khó.
Về lâu dài, muốn tồn tại được thì công ty cũng cần tính đến việc đầu tư mở rộng mạng lưới để phân phối phát triển. Áp lực không hề nhỏ đối với họ. Trước đây, mỗi công ty đều có mạng lưới ipe miễn phí sâu trong khu vực, và những mạng này đều do các cửa hàng nhỏ thiết lập và đóng vai trò là đại lý của công ty. Nhưng bây giờ các trang web này đã bị đóng cửa. Để tồn tại, công ty phải tự đầu tư, nếu tính cả lượng vàng tối thiểu để phục vụ khách hàng thì giá vốn của chi nhánh có thể lên tới hàng chục tỷ đồng. Một vài đơn vị chỉ báo giao dịch, thưa ông, làm thế nào để đảm bảo không xảy ra tình trạng đầu cơ làm giá trong tình trạng độc quyền?
– Đơn vị kinh doanh vàng phải nhìn thị trường để định giá. Ngoài ra, không ai dễ dàng đoán được hệ thống giao dịch với gần 40 đơn vị đầu mối và hàng nghìn điểm cấu thành giá thị trường. Ngân hàng Quốc gia cũng nói rõ rằng họ sẽ tham gia vào việc tạo ra thị trường vàng và sẽ trở thành người mua và người bán cuối cùng. Điều này có nghĩa là nếu giá quá cao, Ngân hàng Quốc gia sẽ dùng nguồn lực mua bán vàng để can thiệp. Điều này có thể kéo dài bao lâu?
– Các công ty thường tính giá trong nước dựa trên giá quốc tế, tỷ giá hối đoái quốc gia, chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất và thương mại, chi phí vốn và biến động ước tính tại các địa điểm trên thị trường thế giới. Để đảm bảo lợi nhuận hợp lý của công ty, chênh lệch giữa giá trong nước và giá quốc tế chỉ nên dao động 500.000-700.000 đồng / hai chiếc.
Giá chênh lệch trước đây chủ yếu do ngân hàng mua vàng. Thanh toán hợp đồng huy động đã ký. Khi nguồn cung hạn chế, sản lượng cả nước cung cấp, lượng nhập khẩu hàng năm không đủ cầu, Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC) không đáp ứng được thì cầu lại tăng. Loại vàngCác loại tiền không phải SJC vẫn đang được lưu hành, nhưng thanh khoản ngày càng giảm nên người có xu hướng giao dịch vàng SJC.
Nếu theo đúng kế hoạch, ngân hàng sẽ hoàn thành tất toán trước ngày 30/6. Các thị trường cần được chuyển đổi. Tôi hiểu rằng Ngân hàng Quốc gia cũng đang xây dựng kế hoạch quản lý loại vàng này. Khi thị trường trở lại trạng thái cân bằng, ngân hàng đã tất toán và đáp ứng đầy đủ nhu cầu chuyển đổi vàng phi SJC, và giá trong nước sẽ theo sát thế giới. Ngay cả khi đó, do lượng cầu rất thấp và nguồn cung đã đủ nên vẫn có những cảnh báo về khả năng giá giảm mạnh. Mới đây, Chính phủ đã ra nghị quyết kêu gọi Ngân hàng Quốc gia Việt Nam hành động để đưa giá vàng trong nước tiệm cận với giá vàng thế giới. Sau khi thông tin được phát đi, thị trường vàng đã lập tức phản ứng. Xu hướng thị trường cuối tuần qua liên quan đến giá vàng giảm, khi Ngân hàng Quốc dân trực tiếp mua bán vàng, theo ông, nó ấn định giá toàn thị trường như thế nào?
– Ngân hàng Quốc gia đã bày tỏ mong muốn trở thành người xây dựng, người mua và người bán cuối cùng của thị trường. Do đó, nếu cần, họ sẽ phải có phương án điều chỉnh giá.
Nhiều người đang nói về hai phương án, một là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam buộc công ty phải tuân theo, hai là đưa ra một khoảng giá như một phương án. Hướng dẫn thị trường .—— Tôi ủng hộ tùy chọn thứ hai. Ngân hàng Quốc gia công bố giá mua và bán hàng ngày và coi đó là mức giá chỉ định. Nếu các đơn vị mua và bán ở quá xa khuôn khổ, Ngân hàng Quốc gia có thể can thiệp thông qua các nghiệp vụ giao dịch để hợp lý hóa nó. Việc xây dựng khuôn khổ này không chỉ tạo ra sự chủ động cho công ty mà còn đảm bảo quyền lợi của người dân.
– Theo bạn, chênh lệch giữa giá mua và giá bán như thế nào là hợp lý?
Hiện tại chênh lệch giá giữa các công ty quá nhỏ, chỉ từ 30.000 đến 50.000 đồng. Bỏ ra 50 triệu đồng mua một lượng vàng nhất định bán lại chỉ được 30.000 đồng, tỷ suất lợi nhuận quá phi lý. Theo tôi, mức chênh lệch này nên ở mức 70.000 – 100.000 đồng là đủ để hạn chế tình trạng ép giá của người dân mà vẫn đảm bảo lợi nhuận hợp lý để kinh doanh bình thường. – Hai năm trước, DOJI, nơi có Điều 24 của “Đạo luật Quản lý Kinh doanh Vàng miếng” chưa có hiệu lực, đã giới thiệu loại nhẫn thông thường dập vỉ như một lựa chọn khác cho các nhà đầu tư bán lẻ. Hiện nay, khi thị trường vàng miếng bắt đầu ổn định trở lại, ông tính toán tương lai của dòng sản phẩm này như thế nào mà vẫn đảm bảo quyền mua bán, tích trữ?
– Máy ép vàng loại nhẫn DOJI ra đời từ đầu năm 2011. Máy đáp ứng được nhu cầu ba trong một của mọi người, có thể mua ở cửa hàng, mua về làm quà, đeo. Cũng là vàng 9999 nhưng số lượng ít nên giá cả đáp ứng được nhu cầu của đám đông. Chúng tôi cũng đã xây dựng chính sách ép phồng để tránh biến dạng, trầy xước và đảm bảo chống hàng giả và khi bán lại mọi người sẽ được hưởng lợi từ ưu đãi của công ty.
Mỗi sản phẩm đều có thời điểm của nó. Nhu cầu thị trường hiện tại mạnh nên chúng tôi vẫn đang bán. Và tôi tin rằng nhu cầu đối với sản phẩm này sẽ dần tăng lên, tất nhiên là sẽ cần một thời gian nữa để vòng vỉ mới có thể gia nhập thị trường. Nhưng nhìn chung, tôi thấy rằng vàng miếng là điều không thể thay thế và khó có thể phát nổ. Do tính thanh khoản thấp nên sản phẩm nhẫn thông thường của đơn vị nào cũng chỉ có đơn vị này nhận chứ không thể mua đi bán lại nhiều nơi như vàng miếng. -Song Lin