Ông Trần Văn Thịnh và vợ là bà Brigitte về thăm quê năm 1992. Ảnh: Tuổi Trẻ .
Sau khi trở lại Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1988, mối liên hệ với Việt Nam rất mạnh mẽ. Thúc giục chúng tôi quay trở lại xa hơn. Chúng tôi sẽ trở lại Việt Nam một hoặc hai năm một lần. Khi Hồ Chí Minh sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau. Tôi có một người anh họ là Nguyễn Văn Chi, Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, bạn học của cha tôi, người đã tham gia kháng chiến chống phát xít Đức. Vợ ông là François Corest (François Corest), một phóng viên của tờ báo “Nhân đạo”, biết ông Fan Wendong và có một mối nhân duyên đặc biệt. Cô ấy giới thiệu tôi với anh Đông: “Anh ấy là một người đàn ông tốt, tiếng Pháp của anh ấy rất tốt và tinh tế. Đặc biệt là nó rất đẹp”. Chính cô ấy đã đích thân dẫn tôi tham gia đoàn Việt kiều tại Fontainebleau để gặp Bác Hồ.
Khoảng năm 1986, Bộ Thương mại Việt Nam bàn giao Phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc tại Geneva (Thụy Sĩ). Tôi đã trở lại Việt Nam để đánh giá tình hình kinh tế và đề xuất đưa ra một chính sách đổi mới kinh tế. Lời mời được đưa ra vì Đại sứ Việt Nam lúc đó là ông Le Dingkan đã báo cáo về đất nước chúng tôi. Khi đó, tôi cũng thực hiện các hoạt động giúp đỡ phái đoàn Việt Nam tại Geneva. Với tư cách là nhà tư vấn, ông Fan Wendong ngay lập tức chỉ thị Bộ Thương mại mời tôi trở lại Trung Quốc. Sau khi nhận được lời mời, tôi lưỡng lự, vì thông tin về Việt Nam còn hạn chế. Vì vậy tôi vẫn còn một số băn khoăn. Hai năm sau, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lại gửi lời mời tôi trở lại Việt Nam, lần này là do đích thân Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gửi theo đề nghị của bạn tôi, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp, Claude Cheysson. Đề xuất. . .
Khi biết tin tôi có ý định về Việt Nam, nhiều thành viên trong gia đình phản đối gay gắt. Nhưng tôi vẫn quyết tâm đi. Tôi nghĩ: lịch sử nước nào cũng có một chương, nhưng dân tộc và nhân dân vẫn vượt lên.
Vậy là mùa hè năm 1988, tôi đã trở về quê hương Việt Nam thân yêu sau 41 năm xa cách. Vợ tôi-Brigitte-và tôi đầy phấn khích và căng thẳng trên máy bay. đi. Sau khi hiểu được hoàn cảnh khó khăn của đất nước, tôi không ra về tay trắng. Vali của chúng tôi bao gồm năm máy tính mini đầu tiên của Pháp. Hồ Chí Minh định xây thư viện điện tử nên tôi mang theo máy tính để giúp người dân công tác thống kê. Ảnh: Tuổi Trẻ .
Trong thời gian ở Việt Nam, theo quy tắc ngoại giao thông thường, tôi không gặp bất kỳ đại sứ châu Âu nào tại Hà Nội. Điều này khiến nhiều người chỉ trích chuyến du lịch của tôi. Nhiều đại sứ quán châu Âu đã gửi điện tín đến Bộ Ngoại giao Pháp để hỏi lịch trình của tôi. Bộ trưởng Ngoại giao Anh Claude Cheson trả lời: “Anh ấy là một công chức. Anh ấy có quyền tự do đi nghỉ”. Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch trả lời tương tự câu hỏi của Việt Nam.
Trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên, tôi có cơ hội gặp gỡ nhiều lãnh đạo cấp cao. Tôi đã gặp ông Fan Van Dong tại Hà Nội và có nhiều cuộc nói chuyện với Bộ trưởng Nguyễn Kuo Quân. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, do sự sắp xếp của Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã, tôi đã tiếp xúc thân mật với Tổng thư ký Nguyễn Văn Lắm. Tôi nhớ anh Nghiệp đã đãi vợ chồng tôi món bánh xèo miền Nam. Vợ tôi thích món này. Sau khi liên lạc với vợ tôi, anh đặt ngay cho vợ tôi là “Vợ Việt Nam”.
Khi gặp anh Võ Văn Kiệt, tôi đã giới thiệu với anh về tầm quan trọng của tổ chức hội. Nhập kinh tế. Vào thời điểm đó, việc tham gia Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) khá dễ dàng. Với tư cách là đại sứ của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại của Ủy ban Châu Âu, tôi có thể giúp đẩy nhanh quá trình đàm phán tại Việt Nam. Tôi đề nghị Việt Nam nên tham gia Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại trước khi gia nhập ASEAN. Tôi cũng nói về sự cần thiết phải đi tắt để phát triển công nghệ. Lấy ví dụ sau Thế chiến thứ 2. Các nhà máy của Đức được chuyển đi và đưa sang Pháp để bồi thường chiến tranh. Do đó, Đức có cơ hội xây dựng nhà máy mới, kết quả là công nghệ của Đức hiện nay tiên tiến hơn nhiều so với Pháp. Tôi không muốn Việt Nam mắc sai lầm khi nhập khẩu công nghệ cũ. – Ông Võ Văn Kiệt ủng hộ tuyên bố của tôi. Nhưng anh ấy cũng nói: “Suy nghĩ của anh ấy là tốt. Nhưng trong nướuNó có nhiều thứ để làm. Sẽ mất ít nhất mười năm để Việt Nam thực hiện chính sách do bạn đề xuất.
Ngoài buổi gặp mặt diễn ra tại Hà Nội, tôi còn có dịp đón ông V. Vanquier đến nhà riêng ở Geneva Davos (Thụy Sĩ) tham gia Diễn đàn Kinh tế Thế giới. Trong bữa ăn trưa, tôi cũng mời thời Ông Jean-Claude Trichet, Bộ trưởng Bộ Tài chính Pháp (đương kim Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Châu Âu) Người phiên dịch cho cuộc gặp gỡ này là một phụ nữ Việt Nam duyên dáng và lịch thiệp. Không thể phủ nhận tiếng Pháp của cô ấy. Cô ấy là Ton Bà Nữ Thị Ninh.
Sau khi trở về Trung Quốc, tôi thường được mời nói chuyện tại các trường đại học và một số cơ sở, tôi đã nói nhiều về phương pháp mềm, omics mềm, trong những ngành mà nguyên liệu là “chất xám”, đặc biệt là công nghiệp phần mềm. Kinh tế học linh hoạt. Tôi nghĩ rằng Việt Nam hoàn toàn có thể thành công theo hướng này do đặc tính linh hoạt, tháo vát và học hỏi nhanh. Bài phát biểu của tôi ở Việt Nam cuối những năm 1980 đã trở thành một hiện tượng. Chúng đã được dịch sang tiếng Việt và sau đó được phân phát.
Một ngày nọ, tôi nhận được một bức thư, bức thư được viết ngắn gọn và chắc chắn: “Điều về omics mềm thật sự rất tuyệt. Tôi muốn gặp bạn. Người ký tên: Võ Nguyên Giáp Bức thư này mở đầu cho tình bạn thân thiết của tôi với Tướng Giáp, kể từ đó, mỗi lần về Việt Nam, tôi đều đến thăm ông, trao đổi sách và ngồi tâm sự về cuộc đời. Vợ anh Hà (chị Hà) cũng nói thạo tiếng Pháp và là một người phụ nữ rất cởi mở, sau này sức khỏe của Tướng Giáp không được như trước, nhưng lần nào tôi cũng nhờ anh dành thời gian ra gặp Pháp mong được gặp. Khi còn là bạn bè, gia đình anh đều đồng ý với người bạn học trò của tôi là cựu Thủ tướng Pháp Michel Rocard (Michel Rocard) đã đến thăm tướng Japp và nhận xét: “Japp giống như một pháo đài cổ. phai màu. “.
* Suite- — (Tuổi trẻ)