“Hiệp sĩ” Việt Nam tại Ba Lan

Một góc của Warsaw. Nhiếp ảnh: Kompas.net .

Tiếng Ba Lan Tiếng Việt quen với việc nói tiếng Việt hoặc tiếng Việt là ngôn ngữ của riêng họ và ngôn ngữ của riêng họ. Điều này là để phân biệt với tiếng bản địa. Người Việt Nam đến Ba Lan trong những năm 1980 và 1990 có nhiều người định cư lâu dài và sau đó thêm người sau giờ học.

Gần 40.000 người Việt sống ở đất nước dằn châu Âu này. Người phương Tây vẫn gọi những đứa trẻ châu Á được sinh ra ở đất nước của họ là “thế hệ chuối” hoặc thế hệ ngoài trắng. Nói cách khác, đây là một thế hệ chỉ có ngoại hình châu Á. “Những đứa trẻ chuối” trong các gia đình Việt Nam là cuộc sống tự nhiên của họ khi họ kết hôn và có con. “Cha mẹ Việt Nam ở Ba Lan có xu hướng cho con đi du học ở các nước phát triển hơn ở nước thứ ba. Đây là lý do để kết nối các nước Việt Nam. Trẻ em trở nên dễ bị tổn thương hơn”, Tiến sĩ Dao Duy Tien, cựu giáo sư tại Đại học Công nghệ Hà Nội, người ở Ba Lan, nói. Ông có nhiều năm kinh nghiệm. Ý tưởng của ông là làm một cái gì đó để kết nối trẻ em với quê hương. Ông có sự hỗ trợ của một nhóm bạn, bao gồm Lê Xuân Lâm, biên tập viên của tạp chí Quế Việt, Lâm Quang Mỹ, thành viên của Hội Nhà văn Việt Nam, và nghệ sĩ Lợi. Sinh viên Đại học Công nghệ Hong Diep và Hahaan tại Warsaw. Trung tâm văn hóa Văn Lang được thành lập năm 2007. Sự lan truyền của người Việt trong giới trẻ Việt Nam được coi là nhiệm vụ chính dễ nói và khó làm mới, bởi vì tiếng Việt Đặc điểm ở Ba Lan là khi quản lý thị trường, mọi người đều biết rằng ngày làm việc bắt đầu từ sáng sớm và trở về khi ngày làm việc đã tối. – Khi sinh ra, đứa trẻ được giao cho người giữ trẻ Ba Lan, lớn lên, họ đi Trường học ở Ba Lan. Nếu họ không thành thạo tiếng Ba Lan và các ngoại ngữ khác, họ sẽ tụt hậu so với các nước khác. Ông Tian nhớ lại: “Đây là lý do tại sao ngôn ngữ của tôi trở thành ngôn ngữ nước ngoài cho trẻ em. “Trẻ em không hiểu tiếng Việt, vì vậy điều đầu tiên dạy chúng là tiếng Việt. Đây là động lực của ngày lễ quốc khánh vào ngày 2 tháng 9 Năm đầu tiên của Văn Lang, một trường dạy tiếng Việt thuộc Trung tâm văn hóa Văn Lang. Có 70 học sinh tham dự. Họ được chia thành 5 loại và chia thành 5 cấp độ khác nhau. Cho đến lễ bế giảng, số lượng của toàn trường vẫn ở mức 70, ban đầu là không thể vì chỉ có một vài người trong trường. Trẻ em lớn lên ở Ba Lan, vì vậy tiếng Ba Lan quan trọng hơn nhiều so với ngôn ngữ “của riêng tôi”. Cũng có rất nhiều áp lực để học tiếng mẹ đẻ và các ngoại ngữ khác như tiếng Anh và tiếng Pháp. Cuộc sống ở phương Tây rất vội vàng, cha mẹ chúng bận rộn làm việc mỗi ngày, Vì vậy, thời gian không tốt cho trẻ em. Vì vậy, Tiến sĩ Đào Duy Tiến và các thành viên sáng lập của Trung tâm văn hóa Văn Lang phải bỏ tiền ra để duy trì lớp học, và phải vận động phụ huynh lên kế hoạch cho con đi học ở Việt Nam. Không có sự khác biệt lớn, và không có lớp học vùng cao. Thiếu lớp học, giáo viên và sách. Để sở hữu một lớp học, họ phải thuê một lớp học Ba Lan, nhưng điều đáng lo ngại nhất là giáo viên. “Hiệp sĩ” phải tìm Việt Nam tại Đại học Warsaw. Học sinh, và họ sẵn sàng dạy. Và những cuốn sách này phải được mua ở Việt Nam. Học sinh không biết các giáo viên nghiệp dư ở Việt Nam, và lớp học đã đến vùng núi Mong và Dao của đất nước như các giáo viên Kinh khác. Nhưng “khó khăn là trí tuệ”, lãnh đạo trung tâm và Giáo viên cùng nhau thiết kế một chương trình đặc biệt: mỗi bài học luôn bắt đầu bằng những bài hát và trò chơi tiếng Việt để thu hút trẻ em. Dần dần, họ tìm thấy một không gian sống ấm áp và nhìn thấy những điều đẹp và lạ ở đất nước Việt Nam này Nhưng vì quá bận rộn nên bố mẹ ít có cơ hội nhắc đến họ. – Người Việt tiếp tục “tiếp thu”. Nhiều trẻ chưa bao giờ tiếp xúc với người Việt và bố mẹ, nhưng một thời gian sau giờ học, họ bắt đầu giao tiếp với ông bà. Giao tiếp với quê hương của người Việt .

(Theo “Tin tức thống nhất”)

Leave a comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *